VỊNH SỬ THỜI AN DƯƠNG VƯƠNG [24/12/2012]
SƠ LƯỢC BỐI CẢNH LỊCH SỬ
 
 An Dương Vương 257-207 trước Tây Lịch): 
 
 Tên húy là Thục Phán, đánh bại Hùng Vương thứ 18 năm 258 trước Tây Lịch,  		lấy nước Văn Lang đổi tên là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (Huyện Đông Anh,  		Tỉnh Phúc Yên - Bắc Việt) trị vì 50 năm.
 
 KIẾN TRÚC THÀNH CỔ LOA VÀ VĂN MINH NHÀ THỤC:  
 
 An Dương Vương xây thành Cổ Loa, có 9 vòng xoáy ốc. Bên ngoài thành là  		hệ thống giao thông hào như kinh rạch, có thể phòng thủ bằng thủy quân  		rất kiên cố, là một kiến trúc cổ chứng tỏ nền văn minh khá sớm của dân  		tộc Việt. Thành Cồ Loa còn được phòng thủ bằng hệ thống cung nỏ liên  		châu, bắn một phát ra hàng trăm mũi tên đồng. Nhờ đó, An Dương Vương đã  		đẩy lui các cuộc tấn công xâm lăng của Triệu Đà. 
 Nỏ liên châu là một phát minh mới thời An Dương Vương. Hiện nay, tại đền  		thờ An Dương Vương có trưng bày nhiều mũi tên bằng đồng nhỏ đào được ở  		dưới đất trong các cuộc khảo cổ. Cuộc nghiên cứu vẫn còn đang tiếp tục. 		
 
 TRIỆU ĐÀ & NƯỚC NAM VIỆT
 
 Năm 207 trước Tây Lịch, Triệu Đà đánh được An Dương Vương bèn sát nhập  		nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập ra một nước mới gọi là Nam Việt. Triệu  		Đà lên làm vua tức là Triệu Vũ Vương, lập ra nhà Triệu, đóng đô ở Phiên  		Ngung, truyền được 5 đời vua trong 96 năm.
 - Triệu Vũ Vương (207-137 trước Tây Lịch)
 - Triệu Văn Vương (137-125 trước Tây Lịch)
 - Triệu Minh Vương (125-113 trước Tây Lịch)
 - Triệu Ai Vương (113- 112 trước Tây Lịch)
 - Triệu Dương Vương (112-111 trước Tây Lịch).
 
 Triệu Đà mang văn minh Trung Quốc sang truyền bá trong nước Nam Việt,  		nhất là phổ biến việc xử dụng các loại điền khí (dụng cụ làm ruộng bằng  		sắt).
 · Nhà Triệu truyền đến đời vua Triệu Ai Vương thì Thái Hậu Cù Thị (ngưiời  		Hán, Anh Tề cưới khi sang Hán làm con tin) thông với nhân tình cũ là An  		Quốc Thiếu Quí, sứ giả nhà Hán mưu toan đem nước Nam Việt nội thuộc nhà  		Hán. Tể Tướng Lữ Gia là người Nam Việt can ngăn không được bèn giết Cù  		Thị và Ai Vương (tên húy là Hưng, con Cù Thị), rồi lập Kiến Đức (mẹ  		người Nam Việt) lên làm vua tức Triệu Dương Vương.
 · Năm 111 trước Tây Lịch, vua Hán sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 5 đạo  		quân sang đánh lấy nước Nam Việt.
 
 CHUYỆN TÌNH MỴ CHÂU TRỌNG THỦY:
 
 Theo truyền thuyết, An Dương Vương phải nhờ thần Kim Qui giúp sức mới  		xây xong Loa Thành. Thần Kim Qui cho An Dương Vương một cái móng dùng  		làm lẫy nỏ thần, hễ bắn ra một phát, có hàng trăm mũi tên phóng ra tiêu  		diệt kẻ thù. Nhờ thế, quân Triệu Đà không thể nào đánh bại được An Dương  		Vương.
 Triệu Đà bèn dùng mưu kế, cho con Trọng Thủy xin cưới Mỵ Châu là con gái  		An Dương Vương.
 
 Trọng Thủy lấy được Mỵ Châu rồi, dò hỏi vợ bằng cách nào, không ai đánh  		được nước Âu Lạc? Mỵ Châu ngay tình, kể chuyện chiếc nỏ thần và đưa nỏ  		khoe chồng. Trọng Thủy bèn đánh tráo nỏ thần bằng nỏ giả. Khi sắp từ giã  		vợ để trở về thăm cha, Trọng Thủy còn nói với vợ rằng: “Lỡ gặp giặc giã  		đánh đuổi, làm sao có thể tìm nhau?” Mỵ Châu trả lời: “Thiếp có áo lông  		ngỗng, khi chạy về đâu, thiếp sẽ rắc lông ngỗng xuống đường để chàng  		theo đó mà tìm.”
 
 An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị. Khi Triệu Đà mang quân  		đánh Loa Thành, An Dương Vương mới đem nỏ ra bắn, nhưng không còn hiệu  		nghiệm nữa..
 An Dương Vưong thua chạy về phía Mộ Dạ. Mỵ châu ngồi sau lưng cha, rắc  		lông ngỗng để Trọng Thủy đi tìm nàng như lời đã hứa. Giặc đuổi theo quá  		gấp, An Dương Vương khấn thần Kim Qui giúp đỡ. Thần Kim Qui hiện ra cho  		biết kẻ thù dẫn lối cho giặc đuổi theo chính là Mỵ Nương đang ngồi ở sau  		lưng. An Dương Vương quay lại, thấy thế bèn vung gươm chém con gái và  		nhẩy xuống biển tự tử.. 
 Trọng Thủy lần theo vết lông lỗng , biết vợ đã chết cũng nhẩy xuống  		giếng trước thành Cổ Loa tự tận. Người ta đồn rằng những con trai dưới  		biễn uống phải chất máu oan khiên của nàng Mỵ Châu, đã hóa ra có ngọc  		trân châu. Ngọc này đem về rửa với nước giếng nơi Trọng Thủy chết, sẽ  		trở thành trong sáng, lóng lánh đẹp lạ thường
 Ngày nay tại làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương có một cái giếng  		theo tục truyền Trọng Thủy đã nhẩy xuống đó.. Ngoài ra, trên núi Mộ Dạ,  		gần xã Cao Ái, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An, có đền thờ An Dương Vương,  		gọi là đền Công vì có nhiều chim công ở đó. Hàng năm, lễ kỷ niệm vào  		ngày mồng 6 tháng Giêng Âm Lịch.
 Người đời sau làm thơ ca vịnh mối tình Mỵ Châu Trọng Thủy là vì lòng  		thương cảm nỗi oan khiên của đôi vợ chồng sống chết cò nhau...Tấm chân  		tình Mỵ Châu Trọng Thủy mãi mãi sẽ không bao giờ phai nhạt. 
 
 THƠ CA VỊNH
 
 Mỵ Châu, Trọng Thủy
 
 Một đôi kẻ Việt người Tần,
 Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương.
 Vuốt rùa chàng đổi máy,
 Lông ngỗng thiếp đưa đường. 
 Thề nguyền phu phụ,
 Lòng nhi nữ,
 Việc quân vương,
 Duyên nọ tình kia dở dở dang.
 Nệm gấm vó câu
 Trăm năm giọt lệ.
 Ngọc trai nước giếng,
 Ngàn thu khói nhang.
 Tản Đà (Khối tình con)
 
 Vịnh Bi Kịch Thành Loa
 
 Thành Loa trăm thước chẳng còn bền,
 Máy rùa ba tấc chẳng là thiêng.
 Nước nhà dấy, mất tại người cả.
 Gió mưa gây dựng công khó nhọc.
 Nam gồm Văn Lang, bắc Ba Thục
 Dư đồ muôn dặm mở mang tới
 Một tấm sơn hà một tấm vóc
 Sẵn sàng cơ nghiệp không biết giữ
 Chiến đã không xong, hòa cũng ngộ
 Biên phòng chểnh mảng, thù hận quên
 Quanh quẩn một lầm hai tại lỡ,
 Thân già đâu nới kẻ thù gia
 Chồng nào thương vợ, con lìa cha
 Giặc ngồi sau lưng nói chi nữa
 Nước ôi nhà ôi, biển Đại Nha!...
 Dương Bá Trạc
 
 An Dương Vương 
 
 Trọng Thủy Mỵ Châu một cặp tình 
 Vì yêu thành vật chịu hy sinh 
 Triệu Đà tranh bá mưu tìm đất 
 Thục Phán đồ vương tính giữ thành 
 Thần nỏ chẳng qua là quốc trợ 
 Thiên tài mới thực để thời minh 
 Ngoại giao chính trị thường gian trá 
 Mất nước mong ai tự xét mình 
 Chính Hà 
 Mạnh Thu Đinh Mão
 
 Thiên tình Sử
 Trọng Thủy Mỵ Châu
 
 Trọng Thủy
 
 Cha con hiếu đạo làm đầu
 Vợ chồng nghĩa nặng tình sâu ngút ngàn
 Ta về bên ấy vấn an
 Mai sau loạn lạc tìm nàng chốn đâu?
 
 Mỵ Châu
 
 Theo đường lông ngỗng rừng sâu
 Xin chàng còn nhớ duyên đầu tìm nhau
 Dù cho bốn phía binh đao
 Cổ Loa thành cũng không vào được đâu
 
 An Dương Vương
 
 Theo cha tìm chốn bôn đào
 Bao nhiêu cung nỏ thành cao chẳng còn
 Nầy qua bao núi cùng non
 Biển đông chắn lối giặc còn bên lưng
 
 Thần Kim Qui
 
 Sóng cao lấp lánh Qui Thần
 Báo cho Vương giặc bên thân cận Ngài
 Nỏ thần đã mất về tay
 Giang sơn gấm vóc từ nay về người
 
 Tự vẫn
 
 Gươm vàng đẫm giọt máu tươi
 Oan khiên kết tụ lưu đời ngọc châu
 Trầm thân Trọng Thủy giếng sâu
 Đời sau rửa ngọc muôn màu đẹp xinh
 Trần ai lưu lại chút tình
 Vũ Thị Thiên Thư
 
 TRỌNG THỦY - MỴ CHÂU 
 
 Phất phơ lông ngỗng buổi chiều tà 
 Phiêu phưởng hồn ai tựa cỏ hoa 
 Oan trái còn vương theo vận nước 
 Nghiệp duyên đã dứt với tình nhà 
 Sa cơ một phút đành vong quốc 
 Ôm hận ngàn năm chịu bại gia 
 Bốn lạy tạ từ xin vĩnh biệt 
 Mỵ Châu nàng hỡi chứng lòng ta 
 Viễn Khách 
 
 MỴ CHÂU 
 
 Lông ngỗng lông ngan rơi trắng đường chạy nạn
 Những chiếc lông không tự biết giấu mình
 
 Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
 Tình yêu đến cùng đường là cái chết
 Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
 Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu
 
 Giá như trên đời còn có một Mỵ Châu
 Vừa say đắm yêu đương vừa luôn luôn cảnh giác
 Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
 Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ
 Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ
 Để chung thủy với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
 Như anh với em dẫu yêu nhau chung thủy
 Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm
 
 Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
 Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết
 Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp
 Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu
 
 Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
 Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống
 Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
 Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào
 
 Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu
 Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
 Nhưng nhắc sao được người hai ngàn năm trước
 Nên em ơi ta đành tự nhắc mình... 
 Anh Ngọc
 
 ÐỌC TRUYỆN CỔ LOA THÀNH
 
 Ðọc truyện cũ đau lòng thương Thục Ðế
 Kìa! Vĩnh Yên, vết tích Cổ Loa sầu
 Trang hận sử còn hoen vàng dấu lệ
 Ðến bao giờ người hết phản ngờ nhau ?
 
 Một vua Thục ỷ vào Thanh Giang Sử (1)
 Vào nỏ thần, một phát, trúng muôn tên
 Ðã hờ hững việc quốc gia phòng thủ
 Giặc chiếm biên thùy, vua vẫn bình yên!
 
 Một Triệu Ðà, đầy lòng gian ý hiểm
 Cho con trai làm tế tử, cầu hòa
 Với âm mưu lúc hương tình âu yếm
 Lừa vợ hiền đem nỏ quý xem qua
 Một Trọng Thủy với tấm lòng phản bội
 Tráo nỏ thần, coi rẻ nghĩa phu thê
 Vì tham vọng mà nhẫn tâm lừa dối
 Nhận yêu thương, trả lại những ê chề!
 
 Một Mỵ Châu ngây thơ và khờ khạo
 Quá vô tình, bán đứng cả giang sơn
 Bởi tin chồng, phận làm con lỗi đạo
 Ðể oan khiên riêng chín suối ôm hờn
 
 Vở bi kịch mở màn bằng câu hỏi 
 Về thăm cha, đất Triệu mấy trùng khơi
 Nếu trong lúc ta trên đường rong ruổi
 Phượng xa loan thăm thẳm một khung trời
 
 Mà hai nước xảy ra điều chinh chiến
 Ta tìm nàng đâu nhỉ, Mỵ Châu ơi?!
 Không suy nghĩ, Mỵ Châu cười, mắt biếc
 Hai quốc gia thuận thảo bởi ta rồi!
 
 Hai quốc gia đã liên tình kết nghĩa
 Thiếp không tin tai biến lửa binh reo
 Nhưng nếu rủi mà loạn cuồng thiên địa
 Thiên nga này, thiếp rắc, dấu chàng theo...
 
 Rồi Triệu Ðà, Cổ Loa Thành vây hãm
 Và nỏ thần Thục Ðế chẳng còn linh
 Giữa lúc vua quan vô cùng hoảng loạn
 Giặc chiếm thành, tên bắn, ngã muôn binh
 Vua Thục Ðế bỏ Loa Thành lên ngựa
 Cùng Mỵ Châu trốn chạy khỏi quân thù
 Ðến Mộ Dạ, ngài khấn thần che chở
 Kim Qui rằng đã muộn, giặc sau vua
 
 Vua nhìn lại, thấy con mình, Công Chúa
 Chớp ngang trời sấm dội, cõi lòng đau
 Vua tuốt kiếm. Kiếm như hồn, tóe lửa
 Ôi thiên hương tan nát giữa muôn sầu!
 
 Ðọc truyện cũ đau lòng thương hiện tại
 Những Mỵ Châu ngờ nghệch giấc Nam Kha
 Một dân tộc, một quê hương quằn quại
 Kim Qui nào mà giặc núp sau ta?!
 NGÔ MINH HẰNG
 (*) Tên của thần Kim Qui
 
 Nhìn Cung Tên, Nhớ Mỵ Châu
 
 Phút cuối đời hỡi Mỵ Châu yêu dấu
 Em thấy gì khi máu đỏ trào dâng
 Trời rất xanh và nắng cũng rất trong
 Mây ngưng thở im nghe hồn Em khóc
 
 Sóng dào dạt hứng từng giòng nước mắt
 Rong còn nâng tay ngọc vướng hồng trần
 Nhắm mắt đi Em, quên nỗi thương thân
 Em chất ngất tin yêu và mê đắm
 
 Những nụ hồng trong trái tim còn đậm
 Những giọt sương còn in dấu thề nguyền
 Nỗi đau nào theo giòng máu triền miên
 Thấm trên cát hòa tan cùng biển tận
 
 Những lừa lọc làm sao Em hiểu được
 Lòng thơ ngây trong sáng ánh thủy tinh
 Những tính toán , những ngọt ngào mưu chứơc
 Bọc quanh Em gấm lụa với hương thanh
 
 Ngàn lông ngỗng nhẹ bay cùng trời đất
 Có chiếc nào theo gió cuộn hồn Em
 Giữa chiêng trống giặc thù reo dậy đất
 Em có nghe ai đau đớn gọi tên
 
 Ơi Mỵ Châu ngậm ngùi ta tưởng tiếc
 Nước giếng nào xóa được hết niềm đau
 Thấm máu đào ngọc biếc cũng buồn theo
 Nằm ngậm kín trong hồn loài ốc dại
 Đặng Lệ Khánh
 
 Cổ Loa Hoài Cảm (Bài Xướng) 
 
 Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
 Trải bao gió táp với mưa sa
 Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc,
 Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha
 Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh
 Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa
 Hưng vong biết chửa người kim cổ?
 Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
 Trần Tuấn Khải
 
 
 Thăm Di Tích Cổ Loa (Bài họa 1)
 
 Dừng chân nền cũ, dấu thành Loa
 Chạnh nhớ Mị châu, giọt lệ sa
 Nghĩa vợ, nỏ thần đâu đáng kể
 Tình chồng, lông ngỗng cũng như pha
 Giếng sâu tạ lỗi, đau lòng bướm
 Thạch nổi ân cần, nát dạ hoa(1)
 Trọng Thủy chàng ôi, đời tục lụy
 Hẹn nhau, thiên cổ dưới trăng tà!
 Vương Sinh
 
 (1) Mị Châu sau khi chết hóa thành tảng đá có hình dạng một thiếu phụ  		không đầu nổi trên sông và được dân chúng vớt đem thờ ở Cổ Loa, nơi đền  		An Dương Vương.
 
 
 Duyên Tình Trong Lửa Hận Thù (Bài họa 2) 
 
 Thục Đế vang danh trấn Cổ Loa 
 Nỏ thần tên bắn tựa châu sa 
 Mắc mưu hòa giải thời phong nghịch 
 Lầm kế kết thân lúc ráng pha 
 Phụ tử gánh thù tan nát nước (1)
 Phu thê mang nợ tả tơi hoa 
 Gươm thiêng oan nghiệt vung tay chém 
 Thỏ ngọc hợp tan với ác tà (2)
 Sơn Khê 
 
 1- Theo quan niệm Trung Hoa cổ : Kiếp trước hai người nếu thù nhau thì  		kiếp này thành cha con ; nếu nợ nhau thì thành vợ chồng 
 2- Thỏ ngọc (Bạch thỏ ):Mặt trăng 
 Ác tà : (Kim Ô ): Mặt trời 
 
 
 Lời Thục Đế (Bài Họa 3)
 
 Hằng đêm ta trở lại thành Loa
 Tìm bóng con yêu đã trầm sa
 Vì chồng nước mắt hoà với biển
 Vì cha máu đỏ ánh chiều pha
 Tuyệt vọng ta thành tên mù quáng
 Yêu thương ai giết một đời hoa
 Ngàn năm tiếng khóc con vô tội
 Vang mãi trong ta mỗi xế tà
 Đặng Lệ Khánh
 
 Chữ Trung Chữ Nghĩa (Bài Họa 4)
 
 Nước mất nhà tan chuyện Cổ Loa
 Chọn trung hay nghĩa! cũng lầy sa
 Mỵ Châu bởi nghĩa, đầu rơi máu
 Trọng Nghĩa vì trung, hận lệ pha
 Chọn nghĩa bất trung, cam mất nước
 Chọn trung phụ nghĩa, thí đời hoa
 Lưỡng nan tiến thoái: trung hay nghĩa?
 Dị lộ đồng qui... bóng ác tà!
 Anh Tú
 
 
 Thủ Bình Bán Vắn 
 An Dương Vương Tử Tiết
 Hồng Quang (Tí Trễ)
 
 1-ADV (-----) Bên tai (xg)
 Ta nghe (xg) dập dồn tiếng trống (cống)
 2-Giữa hoàng hôn (u) gió đưa lồng lộng (cộng)
 Người lực kiệt (xự) ngựa mỏi vó câu (xê)
 3-(-----) Mỵ Châu (xê)
 Con hãy (cống) ngăn dòng châu lệ (xự)
 4-Khóc làm gì (xừ) giữa cảnh lửa binh (xê)
 Giang sơn tang tóc (cống) điêu linh (xê).----
 5-(-----) Cổ Loa (xg)
 Thất thủ (cống).---- bởi vì đâu (xê)
 6-Thần cung (xg) không còn linh nghiệm (xự)
 Để quân Triệu Đà (hò) tiến vào như bão táp (cống)
 7-(-----) Phải chăng (liu)
 Đã hết (ú).---- đời Thục Phán An Dương Vương (liu)
 8-Mỵ Châu : Cha ơi (ú) biển Đông trước mặt (cộng)
 Cùng đường tuyệt lộ (xự) khó nỗi đào sanh (xê)
 9-(-----) Sao cha (xê)
 Không cầu khẩn (cống).---- Kim Qui Thần giải nạn (xự)
 10-Thoát vòng tên đạn (xự) chỉnh đốn quân cơ (xê)
 Phá giặc xâm lăng (xg) hung hăng (xê).----
 11-ADV (-----) Cha xót xa (xg)
 Nhìn cảnh (cống).---- nước mất nhà tan (xê)
 12-Bởi lòng tham (xê) của cha con họ Triệu (xự)
 Khiến Loa Thành (hò) phải tan tành đổ nát (cống)
 13-(-----) Truy binh (liu)
 Đã kề bên (liu) cha khó thể liệu lường (xề)
 14-Hởi (cống).---- Thần Kim Qui (xê).----
 Hãy (cống).---- mở cho ta sanh lộ (xự)
 15-Xin Thần linh (xê) xuất hiện (xự).----
 Chỉ đường (hò).---- ta thành tâm vọng bái (cống)
 16-Thần Kim Qui : Bớ nầy (xề) Thục Phán An Dương Vương (liu)
 Ngươi hãy (ú) nhìn lại sau ngươi (liu)
 17-Tận mặt (xự).---- ngươi thấy chăng (xg)
 Lông thiên nga (xg) bay trong nắng hoàng hôn (xg)
 18-Đã đưa quân (xê) Triệu Đà (hò).----
 Chặn hết đường (hò) ngươi khó nỗi đào sanh (xg)
 19-Và hãy nhìn (xừ).---- Mỵ Châu (xê).----
 Để biết vì đâu (xg) thần nỏ hết linh (xê)
 20-Vì đâu (liu) cùng đường tuyệt lộ (cộng)
 Và vì đâu (liu) Đế nghiệp tan tành (xàng)
 21-Ghìm cương ngựa (xự) nhìn con (xê).----
 Tuốt kiếm (cống).---- lòng Vương đày đoạn (xự)
 22-Giết con rồi (hò) Vương tự sát theo con (xg)
 Hóa thành Đỗ Quyên (xê) gọi mãi nước non (xg) .
 
 
 ... Thủ Bình Bán Vắn mỗi câu 4 nhịp 32 .
 
 Hồng Quang (Tí Trễ)
 
 
 
 Chuyện Tình Mị Châu Trọng Thủy
 
 (Tiếng vọng)
 Đã mấy nghìn năm,
 Chuyện tình sử xanh
 Mỗi lần nhắc đến,
 Lệ vẫn long lanh!
 
 (Người kể chuyện)
 Xưa An Dương Vương
 Cho xây Loa Thành.
 Rùa Thần giúp sức,
 Nỏ thần an dân.
 
 Ai ngờ đâu rằng: 
 Nuôi mộng xâm lăng,
 Triệu Đà toan tính
 Đánh tráo Nỏ Thần.
 
 Sai con Trọng Thủy 
 Sính lễ cầu hôn
 Thăm dò tình thực
 Mưu kế tinh khôn.
 
 Ngây thơ chân chất,
 Thương nàng Mị Châu
 Chỉ đường lông ngỗng,
 Dẫn đến thảm sầu!
 
 Một ngày quân xâm lăng
 Vây đánh chiếm Loa Thành
 Toàn dân nước Âu Lạc
 Khổ đau vì chiến tranh.
 
 Nỏ Thần! Ôi Nỏ Thần!
 Còn đâu nữa uy danh?
 Giặc tràn lên đốt phá
 Tan nát cả Loa Thành!
 
 Đường Trần sao gian nan
 Leo thác lại băng ngàn
 Nàng theo cha bôn tẩu
 Lệ rơi vì nhớ chàng...!
 
 Phụ Hoàng! Ôi Phụ Hoàng
 Về đâu nỗi hoang mang!
 Giặc đàng sau truy kích
 Phía trước biển mênh mông...
 
 (Mị Châu)
 Trọng Thủy chàng ôi!
 Vì sao chia phôi?
 Trắng đường lông ngỗng...
 Thiếp ngóng tin ai!
 
 Oan khiên ngút trời
 Giặc ở tim tôi...
 Hỡi tình phụ tử
 Hết rồi! than ôi!
 
 (Trọng Thủy)
 Ta đã phụ người
 Tình nào lên ngôi
 Lời nào gian dối
 Ngọc vỡ trâm rơi!
 
 Non cao lỗi hẹn
 Mị Châu! Mị Châu!
 Tạ từ em nhé
 Lệ sa giếng sầu.
 
 (Điệp khúc)
 Thôi nhé hận thù
 Một lần suôi tay
 Một lần nước mắt
 Xóa hết chua cay!
 
 Bên kia Cõi nào?
 Người về bình yên 
 Trả đời oan trái...
 Hẹn nhau kiếp sau!
 
 (Người kể chuyện)
 Đã mấy nghìn năm
 Ngọc trong giếng trong
 Chuyện tình từ đó
 Lệ vẫn suôi dòng.
 Song Thuận (2001)
 
 
 
 Lữ Gia
 
 Công ơn cụ Lữ Gia
 Vì nước quên mình già 
 Truất Triệu Ai hàng giặc 
 Giam Cù Thị hại nhà 
 Giết An Quốc thân địch 
 Tôn Triệu Dương vua ta 
 Đại sự tuy chưa đạt 
 Phương danh còn mãi mà ...
 Chính Hà 
 Sơ Thu Đinh Mão
 
 Vịnh Lữ Gia
 
 Diệt Tần, chống Hán, nghĩa thâm sâu
 Nam Việt hiên ngang chẳng cúi đầu
 Cù Thị lăng loàn toan bán nước
 Ai Vương ủy mị tính theo Tàu
 Tinh thần bất khuất như trăng tỏ
 Ý chí quật cường tựa ánh sao
 Quyết chiến, Lữ Gia thân dẫu bại
 Phương danh còn mãi với đời sau!
 Vương Sinh 
 
 Nghi Vấn Sử
 
 Đất nước ta xưa ở chốn nào?
 Động Đình, Ngũ Lĩnh núi non cao.
 Phiên Ngung Nam Hải, trăm con lạc
 Tượng Quận Phong Khê, bách tướng hao
 Thục Phán dòng chi, vua Việt Quốc?
 Triệu Đà giống ấy, chúa Nam Giao?
 Than ôi! Họ Lữ cùng danh tướng
 Chống Hán, diệt Tần, công cốc sao?
 Vương Sinh
 
 Vịnh Triệu Đà
 
 Võ tướng mưu sâu, chí lại già
 So tài Hán Đế, kém chi xa?
 Diệt Tần chiếm cứ vùng Đông Quảng
 Đánh Thục gồm thâu Bách Việt ta
 Vua Bắc hãi hùng, sai sứ đến
 Chúa Nam cao ngạo, dấy can qua
 Phải chi họ Triệu dòng Hồng Lạc (1)
 Đã được lưu danh sử nước nhà!
 Vương Sinh 
 
 (1)Theo Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim), năm 214 tr. TL, Tần Thủy  		Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh lấy đất Bách Việt (Hồ Nam, Quảng Đông,  		Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần  		chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm 3 quận: Nam Hải (Quảng Đông),  		Quế Lâm (Quảng Tây), và Tượng Quận (Bắc Việt). Tinh thần chống Hán diệt  		Tần của Triệu Đà rất phù hợp với tinh thần chống ngoại xâm người Lạc  		việt..
 







